Hồi ức của Nguyễn Hữu Đức
Cựu giáo viên trường Cấp 3 Ân Thi
Thày Nguyễn Thế Sự-Nhà giáo & Nghệ sĩ
Thày Nguyễn Thế Sự sinh vào khoảng năm 1940, quê ở Thị xã Hà Đông- Hà Tây, thành phần gia đình dân nghèo thành thị là một trong số 9 cán bộ-giáo viên đầu tiên thành lập trường Cấp 3 Ân Thi. Năm 1963, tôi tốt nghiệp khoa Địa ĐHSPHN được phân công về dạy ở trường này đã thấy thày dạy học ở đây rồi.Thày sống cùng bà mẹ già khoảng 60 tuổi, hai mẹ con trọ ở một nhà gần Ngân hàng Ân Thi hiện nay.
Ảnh CBGV trường C3 Ân Thi năm học 1963-64 (thày Nguyễn Kim Côn cung cấp)
Thứ tự từ trái sang phải:
Ngồi: Nguyễn Văn Quang(Gv Văn/ quê Miền Nam),Tiến Văn Trường(Lý/Hà Nội), Vũ Hiệp(Hiệu trưởng/Kim Động), Nguyễn Thế Sự(Trung văn/Hà Tây),Đặng Hữu Niệm(Toán/Nghệ An),Nguyễn Kim Côn(Văn/Hải Phòng), Âu Mạnh Quân(Hóa/Hà Nội)
Đứng: Hoàng Đình Buồm(Văn phòng/Ân Thi), Tăng Thị Trâm(Sinh/Bình Định), Vũ Thị Mỳ(Nga văn/Mĩ Hào), Vũ Huy Mẫn(Chính trị/Ân Thi), Nguyễn Hữu Đức(Địa/Hà Nội),Vũ Văn My(Thể dục/Ân Thi), Nguyễn Xuân Hạnh(Sử/Thái Bình), Đỗ Thị Cầu(Toán/Hà Nội), Bùi Thị Am(Cấp dưỡng), Bùi Đức Doanh(Văn/Hà Nội).
Ảnh thiếu thày Trân Xuân Mai (Toán/Thái Bình)
Thày cho biết, trước khi về Ân Thi dạy môn Trung văn, thày là cán bộ phiên dịch cho chuyên gia Trung Quốc ở Bộ Nông trường nên nói tiếng Trung Quốc rất thạo. Do thiếu giáo viên nên thày được Bộ Giáo dục mời chuyển sang dạy Cấp 3 môn Trung văn. Với dáng người mảnh khảnh tầm thước, nhanh nhẹn, ăn mặc xuề xòa đôi khi luộm thuộm, mùa hè áo sơ mi luôn để ngoài quần, mùa đông chỉ khoác thêm chiếc áo bông màu xanh sĩ lâm đã bạc.Nhưng không phải là thày không biết ăn mặc đẹp mà khi cần thiết thày lại tỏ ra rất sành sỏi trang điểm rất đúng mốt như mặc com-lê, đeo cra-vát, đi giầy tây khi thày lên sân khấu để diễn kịch, ca hát, độc tấu vi-o-lông,…
Tuy không học ngành sư phạm, nhưng tác phong lên lớp rất chững chạc, linh hoạt như một giáo viên thực thụ, chữ viết đẹp như chữ ông đồ, phát âm rất chuẩn như người Trung Quốc nói trong các phim Trung Quốc. Giờ học của thày luôn luôn sinh động nhất là những lúc thày phát vấn hoặc cho học sinh từng đôi một trên lớp tập hội thoại với nhau bằng tiếng Trung Quốc được thày kiên trì theo dõi, sửa chữa tỉ mỉ từng li từng tí…Không những sành sỏi về môn Trung văn kể cả về mặt nội dung và phương pháp giảng dạy mà thày còn có hoài bão tự học các ngoại ngữ khác một cách thường xuyên và có sắp xếp khoa học chặt chẽ, nhịp nhàng như sau:
-- Về Nga văn, thày đọc báo Pra-vda (Sự Thật) hàng ngày
-- Về Pháp văn, thày thường xuyên đọc báo Nouvelles Moscou (Tin Mat-xcơ-va)
-- Về Anh văn, thày đọc nhẩn nha mỗi ngày vài trang quyển tiểu thuyết “Những bông hường vàng” của Pa-u-tôp-xki nguyên bản tiếng Nga chuyển sang tiếng Anh.
Tôi không hiểu vì sao mà thày lại có được đầy đủ các tài liệu như thế ở Ân Thi mà thời đó tôi cứ đọc trệch cho nó vui là Âm Ti. Thày bảo với tôi rằng càng đọc nhiều ngoại ngữ như thế thì nhờ có sự so sánh của các ngoại ngữ mới càng nhớ được nhiều từ và ngữ pháp của cả tiếng mẹ đẻ và tiếng Trung quốc mà mình dạy. Phải chăng đó cũng là kinh nghiệm về cách học ngoại ngữ của thày mà ta nên học tập?
Thày Sự còn la một cây văn nghệ tài hoa nổi tiếng không những của trường Cấp 3 Ân Thi mà của cả ngành giáo dục Hưng Yên nữa. Thày biết rộng, hiểu sâu lịch sử âm nhạc của cả Việt Nam và thế giới, nắm rất vững các tác phẩm âm nhạc cổ điển nổi tiếng của các nhạc sĩ thiên tài Đức, Áo, Hung,Ba Lan, Pháp, Ý, Nga…Thày chơi được các nhạc cụ như violon, guitare. Thày còn tán cả thày Vũ Hiệp cho phép mua đàn accordéon để trang bị cho Ban văn nghệ của trường và lặn lội sang tận Nam Hà để mua đàn về tập được mấy tháng. Do tài chính không chấp nhận kinh phí mua đàn nên phải trả lại đàn, không tiếp tục tự học đàn accordéon được nữa. Thày đã độc tấu violon các bản nhạc nổi tiếng như Phiên chợ Ba Tư của Bethoven, nhạc Mozart, Shubert. Thày đã từng đệm đàn guitare cho các thày cô giáo trong trường và cả mấy cô y sĩ ở Bệnh viên Ân Thi mệnh danh là những con chim sơn ca lên hát ở hội nghị liên hoan cấp huyện. Cùng với thày Doãn Quế ở PTC3 Khoái Châu, các thày được tín nhiệm thay phiên nhau đệm đàn guitare cho toàn bộ các thày cô giáo của các trường cấp 3 trong tỉnh Hưng Yên lên sân khấu ca hát ở các hội nghị liên hoan văn nghệ cấp tỉnh. Thày có tài phân biệt âm thanh một cách sành sỏi, điêu luyện: gõ vào bất cứ đồ vật gì có phát ra âm thanh, thày đều xác định được là nốt gì và ở cung bậc nào. Cho nên thử dây các đàn violon, guitare, thày chỉ cần điều chinh trực tiếp từng dây buông chứ không cần phải bấm nốt có âm ngang bằng như mọi nhạc công thường làm. Cũng chính nhờ tai nghe nhạc điêu luyện đó mà thày đã làm được đàn bát bằng cách xếp một loạt bát trên mặt bàn và đổ dần nước vào từng bát làm sao cho khi gõ vào từng bát có âm thanh ở cung bậc khác nhau. Và thày đã độc tấu luôn bài “Anh hùng Núp” có âm hưởng nhạc Tây Nguyên và một số bài dân ca Tây Nguyên khác. Thày còn định tự mình thiết kế và thi công làm lấy cả đàn dương cầm là thứ đàn vua có kĩ thuật cực kỳ khó làm. Ở đầu hồi dãy nhà lợp mái tranh phủ thêm giấy dầu dành cho giáo viên của trường ở, tôi thấy xếp hàng loạt những búa gõ và phím đàn bằng gỗ mà thày đã kiên trì đẽo gọt rất đều và đẹp mắt. Do chiến tranh phá hoại của Mỹ, trường phải rời địa điểm, sơ tán về xã Hoàng Hoa Thám, không chuyển được nhứng vật liệu để làm đàn, công trình tự làm đàn dương cầm của thày bị bỏ dở. Hồi đó, phong trào ca hát trong các trường học rất sôi nổi, Ty Giáo dục Hưng Yên khuyến khích các trường cấp 3 trong tỉnh dạy nhạc cho học sinh, thày bàn với tôi chủ động và tự nguyện dạy nhạc cho các lớp vào nội khóa mà không cần nhà trường tính giờ để trả thù lao. Trong toàn bộ các trường Cấp 3 của Hưng Yên, chỉ có duy nhất trường Ân Thi dạy nhạc. Chưa có sách giáo khoa hoặc tài liệu hướng dẫn dạy nhạc, thày đã cùng với tôi tự biên soạn bài giảng, giáo án thống nhất nhau, tự đăng ký giảng dạy cho khối lớp 8-9 của trường. Lớp 10 không bố trí học nhạc vì chương trình các môn đã quá nặng và cuối năm còn phải tập trung vào thi tốt nghiệp. Học sinh Ân Thi được học nhạc rất hào hứng, phấn khởi, tạo đà cho việc thành lập các ban nhạc, đồng ca, tốp ca,…hoạt động thuận lợi. Ban nhạc trường câp 3 Ân Thi chỉ vỏn vẹn có 3 “nghệ sĩ” cây nhà lá vườn do Thày trực tiếp hướng dẫn-rèn luyện và chỉ đạo biểu diễn gồm Thày sử dụng violon (chuẩn hơn cả nhạc công thực thụ), tôi-đệm guitare (chỉ đệm được mỗi một gam trưởng suốt từ đầu đến cuối bản nhạc, chủ yếu là để giữ nhịp bài hát như kiểu vừa vỗ tay vừa hát), thày Phán – thổi kèn hamonica (thay cho accordéon), đã “hòa tấu” bài Làng tôi của nhạc sĩ Văn Cao nghe cứ như của ban nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam! Cùng với các tiết mục đồng ca Tiếng hát Đoàn Thanh niên Hưng Yên của Nguyễn Văn Tý, Quảng Bình quê ta ơi của Hoàng Vân, Tiếng chim hót trên cánh đồng đay của Nguyễn Văn Tý, Đường cày đảm đang của An Chung, song ca Trai anh hùng gái đảm đang, Chuẩn bị sẵn sàng đi chiến đấu của Đỗ Nhuận, đặc biệt là vở kịch Nổi gió (do thày Sự đạo diễn và đóng vai trung tá Đuyn, cô Bích giáo viên Toán người Miền Nam đóng vai chị Vân, thày Phán dạy Sinh người Hà Nội đóng vai trung úy Phương,…), múa Hoa Cham-pa (do cô Nguyễn Thị Kim Oanh dạy KTNN biểu diễn) rất hấp dẫn, được không những khán giả trường mà còn được các cơ sở văn nghệ nổi tiếng khác trong huyện mời biểu diễn ở ngay cơ sở như trường Cấp 2 Bắc Sơn, Bệnh viện Ân Thi. Ở cơ sở nào Ban văn nghệ của tường cũng được hoan nghênh nhiệt liệt.Tôi vô cùng cảm phục thày về biệt tài nhớ và ghi lại tất cả các bài hát rất chuẩn xác cả về cao độ, trường độ và âm sắc của bản nhạc một cách nhanh gọn không cần phải dập xóa một nét nào, chẳng khac nào nhớ và chép một bài văn dài hàng trang mà không sai một câu, một từ thậm chí thiếu môt dấu chấm, dấu phẩy. Trong đợt học chính trị tập trung cho giáo viên cấp 3 toàn tỉnh Hưng Yên hè năm 1966 ở Khoái Châu, thấy tôi ước ao có bản nhạc của bài Le beau Danube bleu (Dòng sông xanh} cùa nhạc sĩ Áo nổi tiếng Johann Strauss, thày đã “tranh thủ thời gian” nghe giảng một buổi học ghi chép lại cho tôi thẳng toàn bộ bản nhạc dài tới 10 trang vào quyển Sổ chép nhạc mà về sau tôi có dịp tìm thấy bản nhạc này đem so với bản thày đã chép không sai một lỗi nào.Hồi ấy tôi tuy dôi chút khả năng văn nghệ nhưng vẫn được Nhà trường phân công làm Trưởng ban văn nghệ của trường vì tôi la Ủy viên Ban chấp hành Đoàn Trường, còn thày chưa được kết nạp vào Đoàn. Tôi rất trân trọng và quý mến Thày, xin tự nguyện học thày về nhạc và tôn Thày làm quân sư cho các sinh hoạt văn nghệ được thày vui vẻ sẵn sàng chấp nhận. Nhờ Thày ân cần chỉ bảo tôi đã dộc tấu được một số bản nhạc guitare, biết cách tìm giọng cho các bài hát khi nhìn vào dấu thăng/ giáng đặt ở đầu bản nhạc và nốt kết của bản nhạc, xác định hợp âm chủ và các hợp âm chuyển trong bài hát, các thể loại âm nhạc, v v…Thày cũng tỏ ra thân mật và quý tôi lắm, cho tôi mượn xe đạp để đi thăm các gia đình học sinh ở các xã xa trường, thậm chí đi cả Hà Nội về việc riêng (hồi đó cả Hội đồng giáo viên 17 người chỉ có 3 người có xe đạp. mà những người có xe lại giữ gìn xe rất cẩn thận tới mức người mượn tự cảm thấy ngại ngùng không dám hỏi mượn). Tác phong của Thày hơi có vẻ tự nhiên, thoải mái theo kiểu Tây nên hồi đó bị những người kể cả bạn bè và nhân dân thành kiến dị nghị cho là thiếu đứng đắn, thiếu mẫu mực sư phạm. Ví dụ Thày cùng người yêu ăn mặc quần áo chẽn lấy người lại dắt díu tay nhau từ trường ra chợ, đi lại, lượn lờ, mặc cả thoải mái tự nhiên không hợp mắt mọi người khắt khe thờì ấy. Thày sinh con gái đầu lòng đặt tên là Nguyễn Thế Tố Ly Lan. Có người tò mò hỏi sao Thày đặt tên con độc đáo thế, Thày giải thích: Nguyễn Thế là họ, Tố là Tố Phi-tên vợ Thày, Ly Lan là tên con gái của Thày. Và nói thêm: thông thường thì có chữ Thị để xác định con gái, nhưng không cần phải như thế, vì Ly Lan đã đủ xác định là tên của con gái rồi! Chẳng lẽ Ly Lan lại là tên con trai?
Vào khoảng năm 1968, khi trường cấp 3 Ân Thi tách làm trường A và B thì Thày xin chuyển sang làm cán bộ Bộ Văn hóa. Những học sinh đã được thày dạy rất tiếc không được Thày dạy nữa.Bẵng đi từ ngày ấy, tôi không còn dịp nào gặp lại Thày nữa có một em học sinh cũ cho biết có lần gặp thày ngồi viết chữ thuê (tất nhiên là chữ Nho) ở cổng đền bà chúa Kho-Bắc Ninh. Tôi nhớ Thày lắm, chỉ mong được gặp lại Thày, nhưng năm 1992, không thấy Thày về dự lễ kỷ niệm 30 năm thành lập trường. Còn năm nay, 2012-Kỷ niệm 50 năm thành lập trường,liệu có hy vọng gặp được Thày nữa không?
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
( ÔNG ĐỒ-Thơ Vũ Đình Liên)
Anh Vũ Minh Vỹ-tấm gương tự học
Anh Vũ Minh Vỹ là học sinh lớp 8-9-10A khóa đầu tiên trường Câp 3 Ân Thi (1962-65). Tên ở học bạ và Giấy khai sinh là Vũ Văn Vỹ, có lúc anh viết tắt là Võ Vỹ và hiện nay mới là Vũ Minh Vỹ, sinh năm 1948, quê ở thôn Bình Cầu, xã Quảng Lãng, huyện Ân Thi-Hưng Yên. Anh là một trong những học sinh tiêu biểu cuẩ trường cấp 3 Ân Thi, nhất là về tự học.
Với tầm vóc nhỏ nhắn nhưng nhanh nhẹn, hoạt bát,thường chơi thân với bạn cùng tầm vóc, cùng quê, cùng lớp, cùng học giỏi toàn diện, cùng thích ca hát Đoàn Đình Ấm và đều là những con chim sơn ca của lớp, của trường. Anh có năng khiếu về Toán nên năm nào Ty giáo dục Hưng Yên tổ chức thi học sinh giỏi tỉnh anh và anh Nguyễn Nghị (học cùng lớp với anh, quê ở xã Bạch Đằng (Văn Nhuệ) đều đoạt giải: Nhất Nghị, Nhì Vỹ. Hồi ấy Ty Giáo dục ở các tỉnh trên toàn Miền Bắc mới chỉ tổ chức thi học sinh giỏi theo từng tỉnh 2 môn Văn và Toán chứ Bộ chưa tổ chức thi học sinh giỏi tất cả các môn trên toàn quốc như bây giờ. Có lẽ đây cũng là một trong những thành tích mang lại vinh quang cho trường Cấp 3 Ân Thi trong những năm đầu thành lập mà đã giành được cờ luân lưu xuất sắc của Tỉnh ủy Hưng Yên 2 năm liền.
Ảnh HSG do anh Nguyễn Huyến cung cấp
Từ trái sang phải :
Đứng : Vũ Văn Vỹ, Nguyễn Nghị, Ngô Dương Hùng
Ngồi :Trần Doanh, Nguyễn Huyến, Đoàn Đình Ấm
Xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, bố làm thợ may,hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nhưng học giỏi, cần cù, ngoan ngoãn nên được nhà trường cấp học bổng và miễn học phí.
Tuy nhỏ người nhưng anh lao động tích cực.Do trường mới thành lập, chưa có trường sở nên phải học nhờ trường cấp 2 Ân Thi, ngày nào học sinh cũng phải lao động xây dựng trường, cứ buổi sáng lao động, chủ yếu là đào ao lấy đât đắp nền và sân trường, buổi chiều lên lớp nghe giảng. Anh vác những tảng đất nặng tới nửa khối lượng của cơ thể một cách dẻo dai, thuần thục và chạy nhanh thoăn thoắt chẳng kém gì các bạn lớn tuổi. Các bạn cùng khối gán cho 3 chàng trai Vỹ, Ấm và Nghiễm cùng cỡ nhỏ người và cùng lớp, cùng quê xã Quảng Lãng là những con chim sơn ca vì cả 3 chàng đều hát hay tuy không biết nhạc lý cơ bản và hay hát những bài như Những ánh sao đêm (Phan Huỳnh Điểu), Bài ca bên cánh võng (Nguyên Nhung), Anh vẫn hành quân (Huy Du),... Vỹ biết tôi có đôi chút hiểu biết nhạc lí cơ bản mà tôi được học ở trường trung học thời Phap nên Vĩ đề nghị dạy cho Vĩ và tôi cũng vui vẻ, tận tình đem hết vôn liếng học được truyền đạt cho Vĩ. Vĩ tiếp thu kiến thức nhanh, chẳng mấy lúc mà tôi hết sạch vốn, may nhờ thày Sự chỉ bảo nên lại thêm được chút vốn liếng mới, nhưng cũng chẳng ăn thua gì so với tốc độ tự học nhạc của Vỹ.
Sau khi tốt nghiệp THPT xong, không hiểu vì lí do gì mà tôi không thấy Vỹ được gọi đi Đại học hoặc đi bộ đội, có lẽ do vướng tắc gì đó về lí lịch, buộc Vỹ phải đi Thanh niên xung phong trong khi các bạn trừ một số nhỏ đi bộ đội còn lại dù học xoàng hơn Vỹ nhưng hầu hết vẫn được tuyển thẳng vào các trường Đại học đúng sở trường, nguyện vọng, không phải thi thố gì cả. Tôi thấy thương tiếc cho khả năng và sức học của Vỹ và đồng cảm với hoàn cảnh của Vỹ vì bản thân tôi cũng vì lí lịch ảnh hưởng tới hoài bão trên con đường sự nghiệp. Nhưng không vì thế mà Vỹ bất mãn, vẫn lạc quan yêu đời, con chim sơn ca vẫn ngẩng cao đầu ca hát. Từ Yên Bái, anh vẫn gần như thường xuyên viết thư về cho tôi gửi cho anh những bài hát anh thích mà tôi đã chép theo các buổi hướng dẫn của Đài phát thanh TNVN vào buổi chiều chủ nhật hàng tuần.
Bẵng đi một thời gian không liên lạc với Vỹ, vì tôi đi học Sau Đại học và chuyển về dạy ở trường CĐSP Hải Hưng, vào khoảng cuối những năm 80 sang đầu những năm 90 của thế kỷ trước, tôi trở lại trường PTTH Ân Thi mới nối lại liên lạc với Vỹ và được biết anh đã là Vê cac đạo dàn dựng, vừa trực tiếp biểu diễn các tiết mục ca múa nhạc…Tôi không ngờ anh đã vượt lên mọi chông gai, khó khăn về hoàn cảnh gia đình và bản thân, quyết tâm, quyết chí tự học, tự rèn luyện trong môi trường cũng đầy khó khăn, thiếu thốn gian khổ để trưởng thành nhanh chóng như vậy.
Vào khoảng đầu năm 2011, anh Nguyễn Mạnh Đạt chuyển cho tôi quà của anh Vỹ gửi tặng. Đó là quyển Du ca những nẻo đường, chọn lọc tác phẩm qua các chặng đường sáng tác của anh. Sách dầy tới 223 trang cỡ lớn gần bằng giấy A4-Nhà xuất bản Âm nhạc-2010, gồm có các phần sau:
-Về ca khúc và hợp xướng có 5 chủ đề khác nhau:
+ chủ đề chung có tới 36 bài, trong đó có các bài Tiếng đàn Thạch Sanh, Chiếc quạt đêm chèo, Quê hương ân tình…
+Về các tỉnh, thành, quận, huyện 44 bài, hầu như tỉnh nào cũng có ca khúc Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nam, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn,Bắc Kạn,Hải Phòng, Đà Nẵng,…, trong đó có bài Tình ca Ân Thi. Có lẽ mảng chủ đề này chiếm ưu thế nên anh đã được gán cho danh hiệu “nhạc sĩ tỉnh ca”
+Về các ngành nghề, công ti, đơn vị có 31 bài (bác sĩ, thợ bê-tông, lái tầu, ngân hàng A gri bank, BIDV, giáo viên, bác sĩ…)
+Về bộ đội, dân quân, tự vệ, có 32 bài (từ 1976), như Mùa xuân hành quân biên giới, Hành khúc bộ đội công binh,…
+ Về Thanh niên xung phong có 13 bài (từ 1967-75) như Là TNXP, Đoàn xe ta lên đường,…
-Thơ, Nhật kí, hoạt cảnh viết ở Trường Sơn có:
+11 bài thơ
+hoạt cảnh Đường vòng Đắc Pét
Trích nhật kí Trường Sơn viết ở Trường Sơn từ 1968-75
Những ca khúc đánh dấu trưởng thành trên đường sáng tác chuyên nghiệp của anh như
-Thành phố bên sông đào do NSND Quý Dương thể hiện
-Anh về Phả Lại quê em- NSƯT Trung Đức thể hiện
-Chiếc quạt đêm chèo-Hồng Vân thể hiện
Những ca khúc đó đã được Dài TNVN thu âm và phát đi phát lại nhiều lần
Sau hòa bình thống nhất đất nước anh mới thi vào Nhạc viện Hà Nội.Anh tốt ngiệp Đại học sáng tác rồi được phụ trách Đoàn văn công quân khu Ba, sau đó chuyển sang Đoàn ca múa Hà Nam Ninh. Năm 1994 anh học Cao học tới 1997, với tấm bằng Thạc sĩ văn hóa anh được đề bạt làm Phó giấm đốc Nhà hát thể nghiệm trường múa Việt Nam, về hưu năm 2008.
Anh đã được Nhà nước tặng Huân chương Lao động hạng Ba
Danh hiệu NGƯT (từ năm 2008)
Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng nhất,
Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng nhất.
Đã đoạt 4 giải thưởng Hội nhạc sĩ Việt Nam các năm 1999, 2003, 2009 (2 giải),
Giải thưởng Hội Văn học nghệ thuật Hưng Yên 2001
Giải thưởng Hội nghệ sĩ múa Việt Nam 2007
Giải thưởng Bộ GD-ĐT và Hội Nhạc sĩ Viêt Nam 2008
Sáng tác, dàn dựng, đạo diễn, chỉ đạo nghệ thuật nhiều chương trình, tiết mục ca nhạc được tặng Huy chương vàng, bạc tại các hội diễn ca múa nhạc chuyên nghiệp toàn quốc và khu vực. Các liên hoan văn nghệ không chuyên của Bộ, ngành, địa phương, đơn vị.
Đối với quê hương Ân Thi anh có sáng tác bài Quê hương ân tình làm nhạc hiệu cho Dài phát thanh Ân Thi và bài Tình ca Ân Thi.
Đối với trường THPT Ân Thi, anh đã sáng tác bài Những màu hoa học trò đă đăng trên đặc san kỉ niệm 30 năm thành lập Trường và làm nhạc nền cho video ghi lại lễ kỉ niệm Hội trường vào năm 1992. Năm nay, kỉ niệm 50 năm thành lập trường anh đã nhận sáng tác bài hát mới của trường- Bài ca trường THPT Ân Thi và hứa sẽ trực tiếp về hướng dẫn cho học sinh của trường lên biểu diễn trong buổi lễ.
Tuy đã nghỉ hưu nhưng anh vẫn bền bỉ tiếp tục làm việc vì vẫn được cơ quan, đoàn thể, khu vực, địa phương,… tín nhiệm và mến mộ tài năng mời anh sáng tác, dàn dựng tiết mục, đạo diễn kịch bản chương trình cho những ngày Lễ Hội kỉ niệm thành lập, như Hội Trường ĐHSP Hà Nội cách đây 1-2 năm chẳng hạn. Tôi vô cùng cảm phục anh, và tự hào về anh, cậu học trò nhỏ ngày xưa, nhưng nay lại là một tấm gương lớn để mọi người học tập trong đó có tôi tuy xưa là thày nhưng nay lại phải học anh , thật đúng với câu nói “hậu sinh khả úy” của các cụ./.